Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Gửi email
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015Tóm tắt: Sửa đổi, bổ sung pháp luật là nhu cầu bắt nguồn từ chính sách pháp luật và nhu cầu thực tiễn xã hội. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sau gần 10 năm điều chỉnh một số quy định đã bộc lộ những hạn chế cần được hoàn thiện, đặc biệt đặt trong bối cảnh các luật liên quan đã sửa đổi, bổ sung và bắt đầu có hiệu lực thì nhu cầu hoàn thiện là cần thiết để đảm bảo tính thống nhất trong thực hiện, áp dụng pháp luật. Với phương hướng trên, việc đặt ra vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là phù hợp và đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng như chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước ta trong thời gian tới.
TS. Nguyễn Văn Tiến
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
ThS. NCS. Nguyễn Đức Phước
Tòa án nhân dân Quận Bình Tân TP.HCM
1.1 Sự cần thiết của việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Sau gần 10 năm thi hành cho thấy, Bộ luật này đã góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật[1]. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trong việc bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng dân sự dân chủ, công khai, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, một số quy định của BLTTDS năm 2015 bộc lộ những hạn chế cần được khắc phục, bổ sung. Việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 phải căn cứ trên cơ sở lý luận, kết quả tổng kết, thực tiễn thi hành và chính sách pháp luật.
Thứ nhất, việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 căn cứ vào đường lối của Đảng về chủ trương tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến nay vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Quyền con người, quyền công dân có mặt chưa được phát huy đầy đủ; cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên chủ yếu là do: Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa được quan tâm đúng mức; việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra[2]. Đảng ta chỉ đạo: “ Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật”. Và, “Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi cách tiếp cận và tư duy pháp lý theo hướng thay đổi mạnh mẽ, từ thụ động, “chạy theo” sự việc sang chủ động, đón đầu và định hướng cho quan hệ xã hội[3]. Gắn liền với việc bảo vệ quyền con người là bảo vệ quyền của đương sự trong các vụ việc dân sự. Để bảo đảm quyền của đương sự trong tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng phải khoa học, hợp lý, công khai, minh bạch tạo điều kiện thuận lợi để đương sự tham gia vào quá trình tố tụng dân sự và bảo vệ quyền của mình tại cơ quan tư pháp. Tương ứng, là các quy định về trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, xây dựng nguyên tắc Tòa án có trách nhiệm phải bảo đảm quyền của đương sự khi tham gia tố tụng[4]. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cải cách tư pháp là vấn đề trọng yếu, trong đó có hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự. Đảng ta chỉ đạo: “Ðẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”[5]. Trong tình hiện nay, hệ thống pháp luật tố tụng dân sự chưa đáp ứng được yêu cầu về đảm bảo tính dân chủ, tính giản tiện, tính hiệu quả trong giải quyết các vụ án dân sự[6]. Với thách thức này, nhu cầu hoàn thiện pháp luật về tố tụng dân sự đặt trong yêu cầu “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”[7].
Thứ hai, đồng bộ, thống nhất về pháp luật. Thống nhất pháp luật là yêu cầu quan trọng của cải cách tư pháp và pháp điển, hệ thống hóa pháp luật. Pháp luật phải bảo đảm sự tương đồng, mối liên hệ giữa các luật. Đó là tương đồng giữa các luật nội dung với nhau; giữa luật nội dung và luật tố tụng; giữa các luật tố tụng với nhau; giữa luật luật tố tụng với các luật liên quan.
Hiện nay, liên quan đến phạm vi điều chỉnh của luật tố tụng dân sự, trước hết là luật về tổ chức hệ thống Tòa án. Đây là luật quy định về cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền nói chung, các vụ việc dân sự nói riêng. Trên cơ sở quy định của luật này, luật tố tụng dân sự quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án các cấp trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án có sự thay đổi về bản chất của hoạt động áp dụng pháp luật[8]. Tiếp theo là sự sửa đổi, bổ sug của nhiều luật nội dung[9]. Điều này đòi hỏi pháp luật về tố tụng dân sự phải sửa đổi để phù hợp, đồng bộ với pháp luật về nội dung, đảm bảo tính toàn diện trong quy định của pháp luật và hiệu quả điều chỉnh của luật[10]. Chức năng của Tòa án là xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án bảo đảm cho công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác[11]. Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên, hoạt động áp dụng pháp luật phải toàn diện, chính xác, khách quan. Tòa án có trách nhiệm làm sáng tỏ bản chất của vụ việc dân sự, yêu cầu của đương sự và ra các quyết định chính xác, đúng pháp luật. Căn cứ để Tòa án thực hiện việc xét xử là quy định của luật nội dung và trình tự, thủ tục theo quy định của luật tố tụng. Nhà nước giao quyền cho Tòa án áp dụng pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng xét xử để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo luật định. Khi xét xử, Tòa án phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Căn cứ vào ý thức chính trị, pháp luật, quy định của luật, vốn sống thực tiễn, kỹ năng nghề nghiệp, người tiến hành tố tụng phải ra các quyết định đúng đắn, chính xác. Để làm được điều này, sự đồng bộ, thống nhất giữa pháp luật về luật tố tụng dân sự với các luật liên quan là yêu cầu đầu tiên phải đảm bảo.
Thứ ba, sự bất cập của BLTTDS năm 2015. Với gần 10 năm điều chỉnh về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; trình tự, thủ tục yêu cầu giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, BLTTDS năm 2015 có những quy định không theo kịp yêu cầu của đời sống xã hội. Có thể kể ra: Thẩm quyền xét xử của Tòa án chưa hợp lý; quy định về chứng cứ, chứng minh chưa bảo đảm toàn diện nguyên tắc tranh tụng; thủ tục tố tụng còn bộc lộ những hạn chế cần được hoàn thiện. Hơn nữa, với yêu cầu nội luật hóa cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài phát sinh nhiều vấn đề mới; xây dựng Tòa án điện tử, việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 để nâng cao vị thế, uy tín, tạo điều kiện để Tòa án Việt Nam phát triển ngang tầm với trình độ phát triển chung của các Tòa án trong khu vực và trên thế giới là yêu cầu cần phải đặt ra và đáp ứng[12]. Pháp luật tố tụng dân sự phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong các quy định nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý và được xét xử công bằng; lấy quyền con người làm mục tiêu; một nhà nước phục vụ dân, bảo vệ quyền của dân và thúc đẩy phát triển[13]. Hơn nữa, các tiêu chí đánh giá tính phức tạp, độ khó của các vụ án dân sự cũng như tính khách quan trong việc giải quyết các vụ án dân sự để bảo đảm nguyên tắc vô tư, khách quan, công bằng; vị trí, vai trò của những người tiến hành tố tụng, đến việc vận hành trình tự, thủ tục tố tụng; cơ chế bảo đảm cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử… Những hạn chế này không chỉ thể hiện trong BLTTDS năm 2015 mà còn thể hiện trong cả các quy định pháp luật liên quan[14].
1.2 Định hướng sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Cải cách tư pháp, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc dân sự theo hướng đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội về giải quyết tranh chấp trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động là định hướng lâu dài của Đảng, Nhà nước ta. Với định hướng “Xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo”[15], việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 là cần thiết và theo hướng trọng tâm là “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp”[16]. Trong đó, chủ yếu là những vấn đề sau:
Một, về thẩm quyền của Tòa án. Thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ việc dân sự là giới hạn do luật định để Tòa án thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự. Trong đó, ”Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án điện tử”[17]. Bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử và sự độc lập của người tiến hành tố tụng khi xét xử. Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng. Nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến pháp. Tính độc lập khi xét xử phụ thuộc vào quy định của luật, trình độ năng lực của người tiến hành tố tụng và và không chịu sự tác động của cơ quan, tổ chức, cá nhân[18]. Để bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc này, việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ những quy định không còn phù hợp trong pháp luật tố tụng dân sự là quan trọng và cần thiết.
Hai, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự. Trong xu thế phát triển hiện nay, bảo đảm quyền con người trở thành mục tiêu của toàn xã hội và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Với vai trò là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự phải được bảo đảm đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, nhất quán, ổn định, dễ tiếp cận, được kiểm soát hiệu quả, mang tính dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại. Quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo trình tự, thủ tục gọn nhẹ, hiệu quả, nhanh chóng xác định sự thật khách quan, bảo đảm tính công bằng trong xét xử, áp dụng pháp luật. Cho đến nay, nguyên tắc tranh tụng chưa được phát huy một cách đầy đủ[19]. Song song với việc giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục thông thường, bảo đảm thủ tục rút gọn được phát huy hiệu quả. Xây dựng Tòa án điện tử theo xu hướng của các nước trên thế giới.
Ba, chứng minh, chứng cứ. Hoạt động chứng minh có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Trong đó, chứng cứ là công cụ để các đương sự cũng như Tòa án sử dụng khi chứng minh hoặc kết luận về việc giải quyết vụ việc dân sự. Quy định về chứng minh, chứng cứ càng đầy đủ, toàn diện, thống nhất càng góp phần nâng cao hiệu quả việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, bảo vệ quyền của đương sự tại cơ quan tư pháp. Qua thực tiễn thi hành, việc Tòa án, đương sự yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp tài liệu, chứng cứ còn gặp nhiều khó khăn, thiếu sự hợp tác. Tương tự, việc xem xét, thẩm định tại chỗ vướng mắc do thiếu sự hợp tác của chủ thể liên quan hoặc không thực hiện được do có sự cản trở mà không thể xử lý. Điều này làm cho việc xét xử của Tòa án kéo dài, các cấp Tòa án có nhận định khác nhau về quá trình, kết quả chứng minh, Tòa án không thể giải quyết triệt để các yêu cầu khởi kiện của đương sự, yêu cầu của đương sự trong việc dân sự. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do BLTTDS năm 2015 chỉ mới quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ nhưng chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện các biện pháp đó[20].
Bốn, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự được tiến hành trên cơ sở kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền khi phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật. Thủ tục này nhằm kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, thủ tục này không phải là cấp xét xử thứ ba. Thực tiễn trong thời gian qua, thủ tục này bộc lộ những hạn chế cần được hoàn thiện. Theo luật định, việc xét xử của Tòa án phải “Bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm”[21]. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được đưa thi hành. Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chỉ được thực hiện khi phải sửa chữa sai lầm, thiếu sót của Tòa án nhằm tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, công bằng xã hội. Các quy định về đối tượng bị kháng nghị, chủ thể có quyền đề nghị xem xét kháng nghị, thẩm quyền giải quyết trong thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong BLTTDS năm 2015 có một số quy định cần phải sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, giải thích và hướng dẫn. Bản chất của thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là hoạt động tự kiểm tra của nội bộ hệ thống tư pháp[22] nên không thể xem là cấp xét xử và việc giải quyết không mang tính công khai theo nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai[23]. Trong thời gian tới, thủ tục này cần được hoàn thiện theo định hướng: “…đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước đi vững chắc”[24].
Kết luận. Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân; bảo đảm công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; hoàn thành trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân[25] việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là xu thế tất yếu để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của quy định pháp luật.
Tài liệu tham khảo.
Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới;
BLTTDS năm 2015;
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022;
Luật Tổ chức Tòa án năm 2014;
Dự thảo 5 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi;
Tờ trình Dự thảo 5 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi;
Lê Văn Hảo (2023), “Mức độ đáp ứng của pháp luật tố tụng dân sự trước yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” Tạp chí Kiểm sát, Số 13, tr 43 – 48;
Nguyễn Thị Thúy Hằng (2020), “Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Số 7, tr 13 – 21;
Bùi Đức Hiển, Trương Tiến Hùng (2023), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, Số 11, tr 3 – 9;
Hà Thị Mai Hiên (2017), “Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự với việc đảm bảo quyền dân sự của con người và công dân theo Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, Số 1, tr 22-35;
Vũ Thanh Tuấn 92021), “Một số bất cập của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nghề luật, Số 9, tr 9 – 13;
Bùi Thị Huyền (2016), “Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự và phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ theo quy định của BLTTDS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 10, tr 47 – 52;
Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Bình luận về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 10, tr 42 – 46;
Nguyễn Thị Phượng (2009), “Giám đốc thẩm “xét” chứ không “xử”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 13;
https://thuvienphapluat.vn/page/tim-van-ban.aspx?keyword=lu%E1%BA%ADt&match=True&area=0.
[1] Điều 1 BLTTDS năm 2015.
[2] Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
[3] Lê Văn Hảo (2023), “Mức độ đáp ứng của pháp luật tố tụng dân sự trước yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” Tạp chí Kiểm sát, Số 13, tr 43 – 48.
[4] Nguyễn Thị Thúy Hằng (2020), “Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Số 7, tr 13 – 21.
[5] Nghị quyết số 27-NQ/TW, tlđd.
[6] Bùi Đức Hiển, Trương Tiến Hùng (2023), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, Số 11, tr 3 – 9.
[7] Nghị quyết số 27-NQ/TW, tlđd.
[8] Dự thảo 5 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
[9] https://thuvienphapluat.vn/page/tim-van-ban.aspx?keyword=lu%E1%BA%ADt&match=True&area=0.
[10] Điều khoản thi hành, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022.
[11] Điều 2 Luật Tổ chức tòa án năm 2014.
[12] Tờ trình Dự thảo 5 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi.
[13] Hà Thị Mai Hiên (2017), “Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự với việc đảm bảo quyền dân sự của con người và công dân theo Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, Số 1, tr 22-35.
[14] Vũ Thanh Tuấn 92021), “Một số bất cập của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nghề luật, Số 9, tr 9 – 13.
[15] Nghị quyết số 27-NQ/TW, tlđd.
[16] Nghị quyết số 27-NQ/TW, tlđd.
[17] Nghị quyết số 27-NQ/TW, tlđd.
[18] Điều 8 Dự thảo 5 Luật Tổ chức Tòa án sửa đổi.
[19] Bùi Thị Huyền (2016), “Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự và phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ theo quy định của BLTTDS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 10, tr 47 – 52.
[20] Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Bình luận về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 10, tr 42 – 46.
[21] Điều 17 BLTTDS năm 2015.
[22] Nguyễn Thị Phượng (2009), “Giám đốc thẩm “xét” chứ không “xử”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 13.
[23] Điều 15 BLTTDS năm 2015.
[24] Nghị quyết số 27-NQ/TW, tlđd.
[25] Dự thảo 5 Luật Tổ chức Tòa án sửa đổi.