XÂY DỰNG TÒA ÁN THEO THẨM QUYỀN XÉT XỬ: THEO ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - LÃNH THỔ HAY THEO KHU VỰC?

Đặt vấn đề. Hiện nay việc xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử là một nội dung quan trọng trong Nghị quyết Số: 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, việc Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án quy định về hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử vẫn còn những quan điểm khác nhau về quy mô, cấu trúc, nội hàm của Tòa án. Việc luận bàn cho rõ về vấn đề này và đề xuất giải pháp là cần thiết và phù hợp[1]

TS. Nguyễn Văn Tiến
Phó Trưởng Khoa Luật Dân sự
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
ThS. NCS. Nguyễn Đức Phước
Chánh án Tòa án nhân dân Quận Bình Tân TP.HCM
            1.1 Mô hình hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử theo các nghị quyết về cải cách tư pháp
            Xét xử là nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án. Theo khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013,Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Với tinh thần trên, mô hình của Tòa án phải đảm bảo việc thực hiện chức năng tư pháp của Tòa án nhân dân.
            Trước đây, Nghị quyết Số: 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, chỉ đạo: “Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng; khẩn trương chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho toà án cấp huyện; nghiên cứu mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính để góp phần khắc phục tình trạng trì trệ trong công tác giải quyết khiếu kiện hành chính hiện nay; nghiên cứu thành lập Toà án hôn nhân và gia đình; đổi mới tổ chức của Toà án nhân dân tối cao để tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn các toà án áp dụng pháp luật thống nhất. Toà án nhân dân tối cao quản lý toà án địa phương về tổ chức để bảo đảm gắn việc theo dõi, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn với việc nhận xét, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ; phân cấp, bổ nhiệm thẩm phán theo hướng Chủ tịch nước chỉ bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao”.
            Sau đó, Nghị quyết Số: 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, chỉ đạo: “Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”. Theo chỉ đạo này, việc xây dựng hệ thống như trên là đòi hỏi khách quan, bắt nguồn từ yêu cầu cải cách cơ quan Tòa án đối với việc bảo vệ công lý, quyền con người, bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng Tòa án theo định hướng này là nhằm đến các mục tiêu:
            Bảo đảm tính độc lập của Tòa án trong xét xử. Tòa án không thể xây dựng theo đơn vị hành chính - lãnh thổ và có mối liên hệ hữu cơ với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Xét xử là hoạt động đặc biệt của Toà án nhân dân do pháp luật quy định và mang tính quyền lực nhà nước. Trên cơ sở quy định của pháp luật, căn cứ vào nội dung, tính chất của vụ án, sự thật khách quan của vụ việc, Toà án nhân dân có trách nhiệm ra kết luận cuối cùng về nội dung vụ việc. Theo pháp luật Việt Nam chỉ có Toà án nhân dân mới có thẩm quyền xét xử, các cơ quan, tổ chức khác không có chức năng này. Để bảo đảm cho các phán quyết của Tòa án đúng đắn, khách quan, chính xác, công bằng, yếu tố độc lập xét xử là tiêu chí quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân[2].
            Pháp luật về thẩm quyền xét xử là căn cứ pháp lý để Tòa án nhân dân thực thi quyền hạn trong việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền. Thẩm quyền xét xử là chiếc cầu nối giữa cơ quan xét xử với những người tham gia tố tụng thông qua quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân. Công dân, ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận[3].
            Theo đó, Tòa khu vực xét xử sơ thẩm tất cả các vụ án nói chung, các vụ việc dân sự nói riêng; Tòa phúc thẩm có thẩm quyền phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa khu vực, Tòa án cấp cao (tòa thượng thẩm) giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khu vực; Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; tổng kết thực tiễn xét xử; xây dựng, ban hành án lệ và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định. Theo định hướng này, việc xét xử của Tòa án sẽ tăng cường tính chuyên sâu của các cấp Tòa án về hoạt động xét xử. Chúng ta đều biết, mỗi cấp Tòa án giải quyết theo một thủ tục nhất định thì tính chuyên sâu hóa trong hoạt động áp dụng pháp luật bao giờ cũng cao hơn là xét xử nhiều thủ tục. Mỗi cấp Tòa được phân công xét xử theo một thủ tục nhất định, thì người tiến hành tố tụng cũng chuyên môn hóa công việc của mình theo yêu cầu của công việc.
            Việc Tòa khu vực xét xử sơ thẩm tất cả các vụ việc có nhiều thuận lợi như: Tòa án nơi xảy ra tranh chấp giải quyết các vụ án thì việc đánh giá bản chất vấn đề luôn chính xác hơn; công tác xác minh, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ cũng sâu sát hơn. Hơn nữa, việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của Tòa án cũng dễ dàng, nhanh chóng hơn trong việc giải quyết các vụ án. Tòa khu vực xét xử sơ thẩm tất cả các vụ việc cũng hạn chế tình trạng có những vụ việc phải chuyển lên Tòa án cấp trên do liên quan đến thẩm quyền, thành phần đương sự trong vụ án cũng như việc ủy thác tư pháp ra nước ngoài.
            Việc quy định Tòa khu vực xét xử sơ thẩm tất cả các vụ án còn tạo điều kiện để Tòa phúc thẩm, Tòa cấp cao (thượng thẩm), Tòa án tối cao, tập trung thời gian, công sức giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền. Pháp luật quy định nguyên tắc “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên, nên việc xét xử phúc thẩm phải được xác định là cấp xét xử cuối cùng, bảo đảm công lý phải có sự kết thúc, điểm dừng.
            Hiện nay, Nghị quyết Số: 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, về trọng tâm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, Nghị quyết chỉ đạo: “Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Về đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết chỉ đạo: “… độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…”. Về xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, Nghị quyết chỉ đạo: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Về quan hệ và thẩm quyền của Tòa án các cấp, Nghị quyết khẳng định: “Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án điện tử”. Theo chỉ đạo trên, hệ thống tổ chức Tòa án vẫn được xây dựng theo thẩm quyền xét xử nhưng không còn khẳng định tổ chức hệ thống Tòa án được xây dựng theo khu vực.
1.2 Về phạm vi thẩm quyền của Tòa án theo Luật tổ chức Tòa án hiện hành và Dự thảo
Theo Điều 3 Luật Tổ chức Tòa án năm 2014, tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương và Tòa án quân sự. Theo mô hình này, tổ chức Tòa án nhân dân bao gồm bốn cấp. Trong đó, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật; Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật, phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật; Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền phúc thẩm vụ việc mà bản án, sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng, giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử và các thẩm quyền khác.
Với cơ cấu về nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp Tòa án như trên, chúng tôi nhận thấy:
Một, Tòa án các cấp chưa được xây dựng theo thẩm quyền xét xử. Tòa án các cấp được xây dựng theo đơn vị hành chính – lãnh thổ như các cơ quan quản lý nhà nước các cấp.
Hai, một cấp Tòa án xét xử với nhiều thủ tục chưa đảm bảo tính chuyên sâu, chuyên môn hóa trong công tác xét xử. Trong đó, Tòa án nhân dân cấp tỉnh vừa xét xử sơ thẩm, vừa xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân cấp cao vừa xét xử phúc thẩm, vừa xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm;
Đối chiếu với Dự thảo[4], hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền, bao gồm[5]: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án quân sự. Với mô hình này, các cấp Tòa án vẫn giữ nguyên theo đơn vị hành chính - lãnh thổ, chỉ đổi tên (sơ thẩm, phúc thẩm) và bổ sung (Tòa án nhân dân sơ thẩm Hành chính; Tòa án nhân dân Phá sản; Tòa án nhân dân sơ thẩm Sở hữu trí tuệ).
Về thẩm quyền, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm (huyện) có thẩm quyền sơ thẩm vụ việc theo thẩm quyền; Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm (tỉnh) có thẩm quyền sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật, phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật; Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng, tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xửvà các thẩm quyền khác.
Với mô hình, thẩm quyền của hệ thống tổ chức Tòa án theo Dự thảo như trên, chúng tôi nhận thấy:
Một, hệ thống Tòa án vẫn được tổ chức như cũ (theo đơn vị hành chính - lãnh thổ) chỉ khác tên. Quy định này chưa cho thấy thẩm quyền của Tòa án có sự thay đổi về bản chất, tăng cường thẩm quyền, sự độc lập, chủ động trong việc giải quyết các loại vụ việc theo thẩm quyền;
Hai, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp Tòa án về cơ bản như Luật Tổ chức Tòa án năm 2014, trừ
Ba, tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử chưa có sự đột phá. Nội dung thẩm quyền của Tòa án theo thẩm quyền xét xử chỉ bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn về nghiệp vụ chứ chưa có sự cách tân về hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền;
Bốn, tư tưởng lập pháp trong việc giao quyền cho các cấp Tòa án chưa có mạnh dạn, bứt phá. Cách lập pháp này, trong chừng mực nhất định, vẫn chưa thể hiện sự tin tưởng vào trình độ, khả năng chuyên môn của Thẩm phán Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm. Theo định hướng chung, mỗi cấp Tòa án giao giải quyết một loại thủ tục nhất định (xét xử sơ thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm).
Năm, tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử trong Dự thảo mới chú trọng đến mô hình tổ chức, chưa chú trọng đến yếu tố con người, nhân tố quan trọng của hoạt động xét xử. Chưa đề cao vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán về năng lực giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền, ngược lại có thể làm giảm hiệu suất của hoạt động áp dụng pháp luật, không tăng cường, phát huy, đề cao tính chuyên môn hóa trong hoạt động áp dụng pháp luật.
            1.3 Xây dựng Tòa án theo thẩm quyền xét xử: theo đơn vị hành chính - lãnh thổ hay khu vực?
            Cải cách tư pháp là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta, nhằm xây dựng hệ thống Tòa án trong sạch, vững mạnh, chuyên môn sâu và giải quyết nhanh chóng, đúng đắn các vụ việc theo thẩm quyền. Nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp nhấn mạnh đến việc xây dựng, tổ chức ngành Tòa án theo định hướng mới, nhằm hoàn thiện hệ thống cơ quan xét xử, tăng cường năng lực, thẩm quyền giải quyết các loại vụ việc. Đảng ta định hướng: “Tổ chức bộ máy nhà nước cơ bản tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư[6]. Với định hướng trên, việc “bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử” là giải pháp trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
            Trên cơ sở so sánh về việc xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử theo đơn vị hành chính - lãnh thổ và khu vực, chúng tôi nhận thấy như sau:
            Một, nếu hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử được xây dựng theo đơn vị hành chính - lãnh thổ bằng việc đổi tên Tòa án cấp huyện thành Tòa án sơ thẩm; Tòa án cấp tỉnh thành Tòa án phúc thẩm, ưu điểm là hệ thống tổ chức Tòa án vẫn giữ nguyên về nhân sự, cơ sở vật chất, thẩm quyền áp dụng pháp luật;
            Hai, thẩm quyền của cơ quan điều tra, truy tố, thi hành án vẫn tương đồng với việc đổi tên Tòa án các cấp. Điều này đồng nghĩa với việc các luật liên quan chỉ cần đổi tên như Dự thảo là hoàn thiện pháp luật;
            Ba, hạn chế sự xáo trộn trong quá trình áp dụng pháp luật của Tòa án trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
            Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử được xây dựng theo đơn vị hành chính - lãnh thổ có những hạn chế sau:
            Một, hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử được xây dựng thành Tòa án sơ thẩm; Tòa án phúc thẩm nhưng Tòa án phúc thẩm vẫn xét xử sơ thẩm là chưa thích hợp;
            Hai, không tạo ra sự đột phá, khẳng định tính mới của việc xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử như định hướng trong các nghị quyết về cải cách tư pháp. Năng lực và tổ chức của Tòa án có sự thay đổi nếu xây dựng Tòa án theo khu vực[7].
            Nếu xây dựng Tòa án theo thẩm quyền xét xử theo khu vực, có những hạn chế, tích cực như sau:
            Một, hệ thống tổ chức Tòa án có sự cách tân về tổ chức, thẩm quyền, sự độc lập, phù hợp với tình hình xã hội và yêu cầu điều chỉnh pháp luật. Theo đó, Tòa khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, Tòa phúc thẩm có thẩm quyền xét xử phúc thẩm; Tòa cấp cao có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Với thẩm quyền này, Tòa án các cấp có sự tăng cường về sự độc, vai trò, hiệu quả trong hoạt động xét xử, giải quyết kịp thời, nhanh chóng các yêu cầu từ xã hội;
            Hai, hạn chế sự chồng chéo, mâu thuẫn trong việc xác định thẩm quyền xét xử, phát huy tính tự chủ, chủ động của Tòa án;
            Ba, chuyên môn hóa công tác xét xử của các cấp Tòa, hạn chế việc một cấp Tòa xét xử nhiều thủ tục, việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của Tòa án cũng dễ dàng, thuận lợi, nhanh chóng hơn. Với quy định trên, Tòa án nhân dân tối cao, tập trung thời gian, công sức giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền, xây dựng chiến lược phát triển hệ thống Tòa án theo yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.
            Bốn, quy mô của Tòa khu vực lớn hơn so với Tòa án theo đơn vị hành chính cấp huyện đồng nghĩa với việc đội ngũ những người tiến hành tố tụng có trình độ cao hơn, giải quyết được tất cả các vụ việc theo yêu cầu của xã hội, cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, pháp luật thể hiện tính nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả, xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân[8].
            Năm, nếu xây dựng hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử theo khu vực, hệ thống tổ chức Tòa án có sự thay đổi về quy mô, nhân sự, cơ sở vật chất, tranh thiết bị; thay đổi các luật liên quan về thẩm quyền và những vấn đề khác.
            Với sự so sánh như trên, theo chúng tôi, việc sửa đổi, bổ sung luật tổ chức Tòa án là cần thiết nhưng việc đổi tên Tòa án như Dự thảo là chưa thực sự tạo dấu ấn về thẩm quyền xét xử của Tòa án. Chúng tôi nhất trí với quan điểm của các cơ quan, các đại biểu Quốc hội, nhà nghiên cứu là quy định về Tòa án theo thẩm quyền xét xử trong Dự thảo vẫn còn gắn với địa giới hành chính, chưa thể hiện đặc thù của mô hình tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử. Việc thay đổi này chỉ là vấn đề hình thức, chỉ thay đổi tên gọi mà không thay đổi về nội dung. Việc thay đổi chưa đáp ứng yêu cầu “bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử”. Việc thay đổi phải bảo đảm tính mới về tổ chức, thẩm quyền chứ không nên dừng lại ở đổi tên gọi các cấp Tòa án[9].
            Kết luận.Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi cơ quan và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” là định hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với việc bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, việc bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử bằng việc xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử là cần thiết và quan trọng. Việc xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử phải bảo đảm tính đột phá, hiệu quả, phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng thẩm quyền của Tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của Tòa án để xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân[10].
            Tài liệu tham khảo.
Nghị quyết Số: 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới;
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014;
Dự thảo (lần thứ 5) Luật Tổ chức Tòa án sửa đổi;
Tuyên bố quốc tế nhân quyền (1948);
https://tapchitoaan.vn/to-chuc-toa-an-theo-tham-quyen-xet-xu-khong-phu-thuoc-vao-don-vi-hanh-chinh-van-de-doi-moi-can-ban5596.html;
https://thanhnien.vn/co-nen-doi-ten-toa-an-tinh-va-huyen-185230925013736315.htm;
https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=82005&CategoryId=0;
https://thanhnien.vn/co-nen-doi-ten-toa-an-tinh-va-huyen-phai-moi-ca-chat-va-luong-185230926231044231.htm;
https://baotintuc.vn/chinh-tri/uy-ban-tu-phap-khong-tan-thanh-viec-doi-ten-toa-an-cap-tinh-cap-huyen-20231109164401947.htm.
 
[1] https://baotintuc.vn/chinh-tri/uy-ban-tu-phap-khong-tan-thanh-viec-doi-ten-toa-an-cap-tinh-cap-huyen-20231109164401947.htm.
[2] Khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân năm 2014.
[3] Điều 8 Tuyên bố quốc tế nhân quyền (1948).
[4] Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án lần thứ 5.
[5] Điều 4 Dự thảo.
[6] Nghị quyết Số: 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
[7] https://tapchitoaan.vn/to-chuc-toa-an-theo-tham-quyen-xet-xu-khong-phu-thuoc-vao-don-vi-hanh-chinh-van-de-doi-moi-can-ban5596.html.
[8] Nghị quyết Số: 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
[10] Nghị quyết Số: 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.